Ba Loopholes Nghiêm Trọng Khi Tiếp Tục Sử Dụng Đơn Thuốc Viết Tay

Trong bối cảnh y tế hiện đại, việc sử dụng đơn thuốc viết tay vẫn còn phổ biến tại nhiều cơ sở y tế, song không thể phủ nhận những lỗ hổng nghiêm trọng mà hình thức này mang lại. Đầu tiên, tính chính xác của đơn thuốc viết tay thường bị ảnh hưởng bởi chữ viết tay của bác sĩ, dẫn đến nguy cơ sai sót trong việc đọc và hiểu. Những lỗi này có thể gây ra những hậu quả nghiêm trọng, từ việc sai liều lượng thuốc cho đến việc sử dụng sai loại thuốc, đe dọa trực tiếp đến sức khỏe và tính mạng của bệnh nhân. Chưa kể, việc ghi chú thêm các hướng dẫn sử dụng, chống chỉ định, hoặc tương tác thuốc cũng trở nên phức tạp hơn, dễ gây nhầm lẫn cho dược sĩ và bệnh nhân.

Ngoài ra, đơn thuốc viết tay còn hạn chế khả năng theo dõi và quản lý thông tin y tế của bệnh nhân. Hệ thống y tế hiện đại đòi hỏi sự kết nối và chia sẻ thông tin nhanh chóng, chính xác giữa các cơ sở y tế, bác sĩ, và dược sĩ. Tuy nhiên, với đơn thuốc viết tay, việc cập nhật và truy xuất thông tin trở nên chậm chạp, tốn kém và kém hiệu quả. Điều này không chỉ làm giảm chất lượng chăm sóc sức khỏe mà còn gây khó khăn trong việc theo dõi các phản ứng phụ, tương tác thuốc, và lịch sử điều trị của bệnh nhân. Do đó, việc chuyển đổi sang hệ thống điện tử không chỉ là một bước tiến kỹ thuật, mà còn là một yêu cầu cấp thiết nhằm nâng cao chất lượng và an toàn trong chăm sóc sức khỏe.

Ông Nguyễn Hữu Trọng, Tổng thư ký Hội Tin học y tế Việt Nam, đã chia sẻ những thông tin đáng quan tâm tại Hội thảo Phát triển thị trường dược phẩm trong nước – Giải pháp từ chuyển đổi số, diễn ra vào ngày 19/10. Theo ông, tình trạng mua và bán thuốc không theo đơn ở Việt Nam đang trở nên phổ biến, đặc biệt là đối với các loại thuốc kê đơn và kháng sinh. Điều này không chỉ gây ra những rủi ro về sức khỏe mà còn dẫn đến tình trạng kháng thuốc nghiêm trọng.

Những bất cập của đơn thuốc giấy

Ông Trọng chỉ ra ba vấn đề lớn khi sử dụng đơn thuốc giấy, bao gồm kê tay trên sổ y bạ, đơn rời, hoặc kê bằng máy tính trên phần mềm. Đầu tiên, đơn thuốc giấy không thể xác minh được tính chính xác và tính hợp pháp của đơn. Điều này bao gồm việc kiểm tra xem đơn có thật hay không, người kê đơn có đủ thẩm quyền hay không, và cơ sở xuất đơn có đủ tư cách pháp lý hay không.

Thứ hai, đơn thuốc giấy không thể cập nhật trạng thái của đơn, dẫn đến tình trạng người dân sử dụng đơn thuốc nhiều lần và các cơ sở bán lẻ bán thuốc nhiều lần cho cùng một đơn. Điều này gây ra sự lạm dụng thuốc và tiềm ẩn nguy cơ sức khỏe.

Thứ ba, đơn thuốc giấy không quản lý được thời hạn sử dụng của đơn. Mặc dù quy định hiện hành là thuốc kê đơn chỉ có hiệu lực trong 5 ngày kể từ ngày kê, nhiều người dân vẫn có thể mua thuốc sau nhiều năm chỉ với một đơn thuốc cũ.

Ngoài ra, chữ viết tay của bác sĩ trên đơn thuốc cũng gây ra nhiều khó khăn cho người bệnh, nhân viên bán thuốc, và cả cán bộ y tế. Nhiều trường hợp chữ viết của bác sĩ giống như “đánh đố”, dẫn đến việc bán sai thuốc hoặc sử dụng sai liều lượng.

Cần thiết của hệ thống đơn thuốc quốc gia

Trước những vấn đề trên, ông Trọng nhấn mạnh sự cần thiết của việc xây dựng hệ thống bán thuốc và quản lý đơn thuốc theo đơn quốc gia. Hệ thống này sẽ đảm bảo minh bạch trong việc kê đơn, sử dụng thuốc an toàn cho người dân, và quản lý hành nghề của bác sĩ. Điều này áp dụng cho tất cả các cơ sở y tế, bao gồm cả công lập và tư nhân, bệnh viện và phòng khám.

Bộ Y tế đã triển khai hệ thống đơn thuốc quốc gia, đảm bảo việc quản lý đơn thuốc minh bạch. Hệ thống này bao gồm mã cơ sở khám chữa bệnh, mã bác sĩ, và mã đơn thuốc, tất cả được liên thông và tập trung trên hệ thống quản lý thuốc kê đơn.

Dự kiến, hệ thống này có thể lưu trữ tới 600 triệu đơn thuốc mỗi năm. Tuy nhiên, sau 2 năm triển khai, mới chỉ có 200 triệu đơn thuốc được liên thông từ hơn 20.000 cơ sở khám chữa bệnh và hơn 100.000 bác sĩ được cấp mã.

Thực trạng triển khai hệ thống

Mặc dù hệ thống đã có, nhưng hiệu quả triển khai vẫn còn hạn chế. Trên toàn quốc, chỉ có khoảng 1.000 bệnh viện đang thực hiện liên thông đơn thuốc quốc gia, đạt gần 70%. Hơn 460 bệnh viện chưa triển khai liên thông. Số cơ sở khám chữa bệnh và bác sĩ được cấp mã chỉ chiếm khoảng một nửa số cơ sở và người kê đơn thuốc trên toàn quốc. Đối với nhóm trạm y tế và cơ sở y tế tư nhân, tỷ lệ này còn thấp hơn nhiều.

Ông Trọng cũng cho biết, không ít bệnh viện trực thuộc Bộ Y tế tại Hà Nội và TPHCM chưa từng có một đơn thuốc nào liên thông lên hệ thống này.